Ván sợi chống thấm nước
Ván sợi tỷ trọng cao (tên tiếng Anh: High Density Fiberboard, viết tắt là HDF) là một loại ván làm từ sợi gỗ hoặc các loại sợi thực vật khác, được bôi mỡ urê formaldehyde hoặc các loại nhựa tổng hợp khác trong điều kiện gia nhiệt và áp suất.
Tấm nền gỗ được hình thành bằng cách đan xen các sợi lignocellulose và được làm bằng các đặc tính kết dính vốn có của nó. Chất kết dính và/hoặc chất phụ gia có thể được sử dụng trong quá trình sản xuất.
Ván sợi, còn được gọi là ván mật độ, là một tấm gỗ làm từ sợi gỗ hoặc các loại sợi thực vật khác với nhựa urê formaldehyde hoặc các chất kết dính thích hợp khác. Chất kết dính và/hoặc chất phụ gia có thể được sử dụng trong quá trình sản xuất. Ván sợi có ưu điểm là vật liệu đồng nhất, chênh lệch cường độ dọc và ngang nhỏ, không dễ nứt. Nó được sử dụng rộng rãi. Để sản xuất 1 mét khối ván sợi cần khoảng 2,5 ~ 3 mét khối gỗ, có thể thay thế 3 mét khối gỗ xẻ hoặc 5 mét khối gỗ tròn. Sự phát triển của sản xuất ván sợi là một cách hiệu quả để sử dụng toàn diện tài nguyên gỗ.
Nhược điểm của ván sợi là có các đường kẻ ô ở mặt sau, dẫn đến diện tích bề mặt hai mặt của ván không đồng đều, ván bị biến dạng cong vênh do chênh lệch lực giãn nở sau khi hút ẩm; Bề mặt ván cứng, khó đóng đinh, khả năng chịu nước kém. Mặc dù ván sợi khô tránh được một số nhược điểm, nhưng giá thành của nó cao.
Việc sản xuất ván sợi ở Trung Quốc bắt đầu từ những năm 1970, phát triển vào những năm 1980 và cất cánh vào những năm 1990. Kể từ khi bước sang thế kỷ 21, sản lượng ván sợi đã tăng lên đáng kể, lần đầu tiên vượt ngưỡng 20 triệu m3 vào năm 2005 lên 49,54 triệu m3 vào năm 2011. Từ sản lượng của các tỉnh, thành phố, sản lượng ván sợi của tỉnh Hà Nam đạt 6,98 triệu m3 mét khối năm 2011, tăng 44,87% so với năm 2010 và chiếm 14,09% tổng sản phẩm quốc gia. Quảng Tây, Giang Tô và Sơn Đông theo sát, lần lượt chiếm 12,84%, 9,76% và 8,56% tổng sản lượng. Từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2012, sản lượng ván sợi của Trung Quốc đạt 29805100,39 mét vuông, tăng 11,3% so với cùng kỳ năm 2011.